Bay trên tổ chim cúc cu có tựa gốc là One flew over the cuckoo’s nest do tác giả Ken Kesey viết, xuất bản lần đầu năm 1962. Cuốn sách nằm trong Top 100 cuốn sách Anh ngữ hay nhất từ 1923 đến 2005 do Time bình chọn. Tuy vậy, Bay trên tổ chim cúc cu cũng là một cuốn sách gây nhiều tranh cãi và đã từng liên tục được đưa vào giảng dạy rồi lại bị cấm ở rất nhiều trường học trên đất Mỹ. Bất chấp những tranh cãi, cuốn sách vẫn được chuyển thể thành phim điện ảnh với sự diễn xuất tuyệt vời của Jack Nicholson. Bộ phim sau đó lãnh trọn Big Five – 5 giải quan trọng nhất của Oscar 1975. Kỷ lục này mãi đến năm 1991 mới được lặp lại bởi bộ phim rất quen thuộc The silence of the Lambs.
Bay trên tổ chim cúc cu lấy bối cảnh của một trại tâm thần tư nhân tại Mỹ nơi những bệnh nhân mắc bệnh tâm thần hàng ngày sinh hoạt và chữa trị tâm bệnh dưới trướng quản lý của Y tá trưởng Ratches – người khét tiếng quân phiệt và là đại diện quản lý của một tổ chức quy mô bên trên. Mọi sinh hoạt của trại thương điên một ngày bỗng bị đảo lộn và náo loạn vì sự xuất hiện của nhân vật Randall McMurphy – một tên tù giả điên để trốn lao động, được đưa đến trại nhằm xác thực lại tình trạng bệnh tật của hắn. Thay vì ngoan ngoãn vâng lời bà Ratches như những bệnh nhân khác, McMurphy khiến quyền quân chủ của bà Y tá trưởng chao đảo.
Dễ thấy, cụm từ One flew over the cuckoo’s nest xuất hiện trong phần 4 chương 27, nhân vật Chief – Thủ lĩnh tỉnh dậy sau khi bị đưa vào Phòng Điên trị sốc điện, lúc tỉnh dậy đã nhớ về những ký ức thời thơ ấu, khi “Bà nội ê a bài vè”:
Ting.
Tingle, tingle, tremble toes
She’s a good fisherman,
Catches hens,
Puts ‘em inna pens
Wire blier, limber lock,
Three geese inna flock
One flew east,
One flew west,
One flew over the cuckoo’s nest
O-U-T spells out
Goose swoops down and plucks you out.
Đoạn này được dịch thành đoạn văn sau (trang 376)
Đây vốn là một đoạn nhỏ bắt nguồn từ một bài vè có nhiều dị bản. Một phiên bản đầy đủ của bài vè đó là:
William Matrimmatoe
He’s a good fisherman.
He catches hens,
Puts them in pens.
Some lay eggs.
Some lay none.
William Matrimmatoe
He’s a good fisherman.
Wire, briar, limber, lock.
Three geese in a flock.
One flew east.
One flew west.
One flew over the cuckoo’s nest.
Wire, briar, limber, lock.
Out goes you, old dirty dish rag, you.
Vậy bài vè này cùng với cụm từ One flew over the cuckoo’s nest – Bay trên tổ chim cúc cu được đưa lên làm tựa sách mang ý nghĩa gì? Chúng ta cùng cắt nghĩa nhé!
Bạn có biết tập tục của những chú chim cúc cu là gì không? Chúng chẳng bao giờ xây tổ hay tự ấp trứng cũng như chăm sóc con cái của chúng. Tất cả những gì chúng nỗ lực làm là tìm một chiếc tổ có sẵn, đẻ trứng của mình vào đó và để cho cặp chim khác nuôi con mình. Chúng thậm chí còn đá trứng của chim khác ra khỏi tổ để đảm bảo con mình sống sót và có được nguồn thức ăn đầy đủ.
– Tổ chim cúc cu ở đây chính là trại thương điên
– “Fishermen” ở đây chính là Y tá trưởng Ratches. Bà “nuôi nhốt” những bệnh nhân của mình (catches hens), “chăn dắt” họ như những con gà.
– Trong 3 chú ngỗng ở bài vè thì McMurphy chính là chú ngỗng thứ ba đã “bay qua tổ chim cúc cu” (One flew over the cuckoo’s nest) và lôi kéo các bạn cùng đi (O-U-T spells out, Goose swoops down and plucks you out)
– Nhân vật Thủ lĩnh chính là người được “plucks out” lôi ra khỏi “tổ chim”, là người thấm nhuần tinh thần bất diệt của McMurphy và trốn thoát khỏi trại thương điên ở cuối truyện.
Bài vè khi được dịch ra đã có nhiều phần nghĩa mất đi, nhất là đoạn cuối “plucks you out”. Để hiểu sát tựa đề sách, bạn hãy đối chiếu với bản gốc nhé!
Không chỉ có vậy, xuyên suốt cuốn sách, tác giả Ken Kesey đã sử dụng rất nhiều câu từ liên quan đến bầy chim và tổ chim nhằm cài cắm thêm ý nghĩa cho tựa đề sách và bài vè chúng ta được biết đến ở chương 27 phần 4. Tiếc rằng mình đọc đã lâu rồi và không còn nhớ chính xác đoạn để tìm lại, đành hẹn một dịp đọc lại cuốn sách này vào một ngày không xa và bổ sung ngay tức khắc những ví dụ cụ thể hơn.