Do Thái là một dân tộc đặc biệt. Hiện nay 11,6% tỉ phú , 30% người đoạt giải Nobel , 20% giáo sư của các trường Đại học lớn của nước Mỹ là người Do Thái. Là một dân tộc thông minh, thành công trong thế giới hiện đại nhưng lại là một dân tộc có số phận kỳ lạ và đau thương trong quá khứ.
Với LỊCH SỬ DO THÁI Paul Johnson đã viết về sự tồn vong của dân tộc Do Thái trong suốt 4 thiên niên kỷ. Họ đã tồn tại và duy trì bản sắc riêng của mình cho tới ngày nay giữa muôn vàn nghịch cảnh với một sức chịu đựng phi thường và sức sống bền bỉ. Họ ngoan cường với việc sở hữu và chiếm giữ đất đai nhưng khi cần họ cũng có một bản năng di cư mạnh mẽ.
Để trường tồn dân tộc Do Thái như loài chim Phượng Hoàng, mỗi lần bị thiêu trong lửa nóng là lại 1 lần vươn dậy mạnh mẽ trên đống tro tàn.
Ngay từ thời cổ đại đã có những thủ lĩnh tinh thần hay những vị vua có trí tuệ đặc biệt và tầm nhìn vượt thời đại:
JOSEP: là mục sư, chính khách. Là một người thông minh, giàu trí tưởng tượng, có nhiều kiến thức bí hiểm. Ông còn có khả năng sáng tạo để diễn giải các hiện tượng phức tạp, dự báo và tiên tri.
MOSES : Giữa hoàn cảnh nô lệ đầy khổ cực, Moses xuất hiện và dẫn dắt người Do Thái tháo chạy khỏi Ai Cập.
Thượng Đế thông qua Moses đã truyền ban Mười Điều Răn và Lề Luật cho dân Do Thái Mười Điều Răn tuyệt đối này đã được người Do Thái áp dụng đến tận ngày nay.
Moses đã thúc đẩy lịch sử loài người tiến 1 bước khổng lồ bởi ông có những sáng tạo mạnh mẽ, biến những khái niệm bình thường thành 1 khái niệm mới hoàn toàn khiến người ta không thể nhìn thê giới bằng con mắt cũ.
DAVID: Từ 1 người chăn cừu trở thành 1 vị vua được yêu mến nhất trong lịch sử Do Thái. Triều đại của ông được coi là hoàng kim.
David là một vị tướng quân tài ba và cũng là một ông vua yêu thi ca bậc nhất trong lịch sử. Tên tuổi của ông gắn với giai thoại giết chết người khổng lồ Goliath.
Ông được coi là vị vua vĩ đại bởi ông đã gộp vai trò 1 vị vua va nhà tư tế và nhất là ông đã lập được 1 thủ đô của dân tộc và tôn giáo : thành Jerusalem.
SOLOMON: Sau thời đại David là thời đại của Solomon. Ông thu phục được lòng tin của lân bang, mở rộng ngoại thương tới các xứ xa và tạo nên một trong vương triều giàu có bậc nhất trong lịch sử. Ngôi Đền Jerusalem đã được hoàn thành vào năm 825 TCN và được xem là kỳ quan đệ nhất của thế giới thời đó, hoàn thành giấc mơ dang dở của Vua David.
Là một dân tộc chịu nhiều thảm kịch, bị thanh trừng tàn bạo, bị lưu đày biệt xứ, bị trục xuất khỏi quê hương; tưởng chừng như họ bị đồng hóa, mất tích nhưng họ vẫn luôn hồi sinh một cách kỳ diệu.
***
Có một bản năng sinh tồn mạnh mẽ với những lãnh tụ xuất sắc cộng với những bi thương phải gánh chịu, người Do Thái đã sản sinh ra một tôn giáo của riêng mình. Nó rất đặc biệt bởi đã thích ứng được các điều kiện khắc nghiệt mà dân tộc Do Thái phải trải qua. Do Thái giáo còn là khởi nguyên của Kitô giáo và Đạo Hồi.
Do Thái giáo là tôn giáo bảo thủ nhất trong các tôn giáo nhưng nó lại có gốc gác cách mạng nhất. Chủ nghĩa Độc Thần đạo đức bắt đầu quá trình mà qua đó thế giới quan cổ đại bị phá hủy.
Do Thái giáo chỉ có 1 Chúa duy nhất , toàn năng vô hạn và con người được tạo ra dưới hình hài của Chúa. Điều này vô cùng quan trọng, là nền tảng đạo đức đức của tôn giáo, là nguyên tắc toàn diện và là tuyên ngôn nguyên thủy về sự bình đẳng. Một điều đáng chú ý là Đạo Do thái sau nhiều thế kỷ phát triển đến khi Giêsu xuất hiện các lời dạy và hoạt động của Giêsu đã chĩa mũi nhọn vào một số khía cạnh chí tử của Do Thái giáo dẫn đến sự phân đôi Ki tôn giáo và Do Thái giáo.
Hai thảm họa vào năm 70 và năm 135 đã chấm dứt lịch sử quốc gia Do thái cổ đại dẫn đến sự phân tách cuối cùng giữa Do Thái giáo và Kitô giáo.
Do Thái giáo không còn là một quốc giáo theo bất cứ ý nghĩa vật chất hữu hình nào, khó có thể xếp lịch sử ra Do Thái vào bất cứ hệ thống phân loại tại quốc gia và thế giới nói chung nào, nó là một hiện tượng độc nhất.
Trong lịch sử của mình, dân tộc Do Thái hết lần này tới lần khác chịu sự thanh trừng tàn bạo, người chết, tài sản bị tịch thu, cướp bóc (như bạo loạn Tây Ban Nha 1492, Bồ Đào Nha 1497…). Đã có những điều luật phi lý dành cho người Do Thái ở một số nơi như “Người Do Thái ở Venice hay bất cứ quốc gia nào đều không thể đòi hay hưởng quyền công dân”, điều này đã buộc cộng đồng Do Thái lưu vong khắp nơi, tìm kiếm vùng đất định cư lâu dài và phát huy kỹ năng kinh doanh của họ. Công lao lớn nhất của người Do Thái là làm cho người châu Âu chấp nhận tiền và giá trị của tiền tệ. Ở London người Do Thái sáng lập ra thị trường tài chính. Tính tập thể trong vô thức của người Do Thái là phi cá nhân hóa tài chính và hợp lý hóa quá trình kinh tế nói chung, nên họ phát minh ra thư tín dụng trái phiếu vô danh. Họ ủng hộ mạnh mẽ sự hình thành các thiết chế thúc đẩy các loại giấy tờ có giá trị.
***
Người Do Thái đã phải chịu nhiều đợt diệt chủng từ cổ đại cho đến hiện đại nhưng nặng nề, tàn bạo và triệt để nhất là trong chiến tranh thế giới 2 dưới tay người Đức với phạm vi toàn bộ châu Âu. Họ bị bắt phải làm việc đến chết “tiêu diệt thông qua lao động” , họ chết trong các nhà tù, trại tập trung, phòng hơi ngạt, lò thiêu người và vô vàn kiểu thành hình man rợ không kém thời trung cổ. Con Số người Do Thái chết trong chiến tranh thế giới lần thứ hai là gần 6 triệu người. Một điều đau xót là người Do Thái bị diệt chủng như vậy không chỉ bởi người Đức mà còn bởi tư tưởng bài Do Thái lan rộng ở châu Âu đã từ rất lâu. Người Do Thái bị giết một cách tàn bạo bởi những người bài Do Thái ở Áo, Rumani, Ukraina… Chính phủ các nước còn lại cũng không mặn mà với việc giải cứu người Do Thái…
***
Điều này đã thúc đẩy người Do Thái cần nhanh chóng lập ra một đất nước của riêng mình. Quốc gia đã được lập ra để đón các nạn nhân của chủ nghĩa bài Do Thái ở châu Âu. Nó là nơi sinh sống cho những người bị trục xuất ra khỏi các cộng đồng Do Thái Ả Rập. Sau bao nhiêu năm lưu vong, người Do Thái đã có quốc gia và có mảnh đất cho riêng mình: Israel. Còn ý nghĩa hơn hơn thế, nó là nơi nương náu có chủ quyền của những người Do Thái gặp nguy hiểm ở bất cứ đâu trên thế giới. Nó sẽ bảo vệ những người Do Thái đã về trong biên giới của mình, là sự đảm bảo vật chất duy nhất rằng sẽ không có một thảm họa khác xảy ra trong tương lai..